Thông thường, khi nói đến văn hoá là nói đến các giá trị truyền thống, còn văn minh là trình độ phát triển kinh tế – xã hội, là quá trình đô thị hoá và hiện đại hoá. Nói như vậy xem chừng có sự tách bạch giữa văn hoá và văn minh. Thực ra giữa chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ. Văn minh phải dựa trên nền tảng văn hoá, lấy văn hoá làm bệ đỡ, làm định hướng. C.Mác đã từng cảnh báo, đại ý: phát triển văn minh mà không lấy văn hoá làm định hướng thì sẽ biến phía sau thành hoang mạc. Nhưng bảo tồn văn hoá mà không chú ý đến văn minh hiện đại thì rất dễ rơi vào tình trạng bảo thủ, trì trệ và lạc hậu. Bởi vậy, văn hoá và văn minh phải được coi là hai người bạn đồng hành hỗ trợ cho nhau. Văn hoá giúp cho văn minh có tính định hướng; văn minh bổ sung cho văn hoá tính hiện đại, hội nhập và phát triển. Như vậy, không thể chú trọng phát triển văn minh mà xao nhãng, lãng quên văn hoá truyền thống, cũng như không thể quá chú trọng đến văn hoá truyền thống mà coi nhẹ sự phát triển văn minh đô thị. Vấn đề ở đây là phải xác định một cách rõ ràng, cụ thể văn hoá và văn minh đô thị là gì, nó biểu hiện như thế nào và sự kết hợp giữa chúng ra sao? Trên cơ sở đó chúng ta mới có những định hướng hợp lý trong việc quy hoạch phát triển đô thị.
Văn hoá đô thị được xác định bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như văn hoá ứng xử xã hội, văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Tuy nhiên, do văn minh thiên về các giá trị vật chất nên ở đây xin chỉ đề cập đến văn hoá vật thể như một bộ phận gắn bó mật thiết với văn minh đô thị.
Vậy văn hoá vật thể Huế có những đặc trưng gì cần chú ý trong quá trình phát triển văn minh đô thị? Theo chúng tôi, những đặc trưng đó là:
1. Kiến trúc đô thị Huế có truyền thống trên nền kiến trúc “tạo cảnh”: Với phong cách riêng, quần thể kiến trúc kinh thành, đền đài, lăng tẩm, nhà cửa hoà quyện cùng ngoại cảnh thiên nhiên thơ mộng. Trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn, có đoạn: “Nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền Nam, miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng, đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân chặn ngang, sông lớn giăng phía trước, núi cao phủ phía sau, rồng cuộn hổ ngồi, hình thế vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật là thượng đô…”(1). Với cái nhìn phong thuỷ, kinh đô Huế được xây dựng trên một địa thế núi sông, âm dương hoà hợp, tạo nên một không gian kiến trúc “tạo cảnh” mang nhiều triết lý sâu xa, huyền bí.
2. Cũng nằm trong không gian kiến trúc “tạo cảnh”, nhà vườn Huế được coi là một nét văn hoá vật thể truyền thống đặc trưng. Nhà vườn Huế thể hiện triết lý sâu xa của con người xứ Huế: hướng nội, suy tư, hòa quyện vào thiên nhiên, gửi gắm lòng mình vào cỏ cây, hoa lá. Loại kiến trúc này lấy ngôi nhà làm trung tâm, trong đó người ta đặc biệt chú ý đến cả kết cấu kiến trúc (chạm khắc, tạo dáng tỉ mỉ, tinh vi, khéo léo đến mức ngôi nhà trở thành tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ), không gian kiến trúc (địa thế, phương vị, tiền án và vườn cây tạo cảnh xung quanh nhà), không gian xã hội (nhà nhất thiết phải có số gian lẻ, gian giữa đặt bàn thờ, hương án, hoành phi, câu đối; gian trên, chái trên dành cho đàn ông; gian dưới, chái dưới dành cho phụ nữ…).
3. Văn hoá vật thể Huế còn được thể hiện ở quần thể di tích cố đô, gồm hệ thống di tích lịch sử – văn hoá: thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền miếu…với diện tích trên 500ha. Kinh thành Huế còn là nơi hội tụ những giá trị đặc trưng về cảnh quan, kiến trúc, nghệ thuật tạo hình độc đáo, mang phong cách đặc trưng văn hoá Huế.
4. Đặc trưng tiếp theo của văn hoá vật thể Huế là sự có mặt với mật độ dày đặc các chùa chiền, nhà thờ và các cơ sở thờ họ khác, như điện thờ, thánh thất, đền miếu…
Trước hết, Huế là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với sự có mặt của nhiều chùa chiền cổ. Hiện nay, Huế có khoảng trên 100 chùa chiền lớn nhỏ, phần nhiều trong số đó nằm ở phía tây thành phố. Bên cạnh đó, Huế còn có 13 nhà thờ Thiên chúa giáo, 1 thánh thất Cao đài và hàng ngàn nhà thờ, đền miếu…Đó là những giá trị văn hoá vật thể mang dấu ấn kiến trúc tôn giáo.
5. Văn hoá vật thể Huế còn mang tính điển hình của sự khéo léo, tinh tế, cầu kỳ. Có lẽ do yếu tố địa – văn hoá (sơn thuỷ hữu tình) do yếu tố địa – lịch sử (thủ phủ và kinh đô của chúa Nguyễn và triều Nguyễn) nên Huế giữ được sự tinh tế, khéo léo trong các sản phẩm văn hoá của mình, kể cả văn hoá cung đình và văn hoá dân gian. Điều này không chỉ biểu hiện trong văn hoá phi vật thể như các loại hình ca, múa, nhạc, các loại hình nghệ thuật điêu khắc…mà còn biểu hiện ngay trong đời sống văn hoá ẩm thực, trang phục Huế.
Nói đến ẩm thực Huế, người ta nói ngay đến sự khéo léo, tinh tế đến cầu kỳ trong cách ăn, chế biến và bày biện món ăn. Tinh tế ở chỗ ăn uống nhỏ nhẹ, ý tứ, vừa ăn vừa thưởng thức các hương vị khác nhau trong từng món ăn. Cầu kỳ ở cách thức chế biến và bày biện món ăn công phu, tỉ mỉ. GS Đinh Gia Khánh đã từng nói: “Chúng ta ngắm một mâm cỗ của một người nội trợ Huế thì có cảm giác như đang chiêm ngưỡng một mâm hoa; ở đó đường nét các loài hoa, màu sắc của chúng tạo nên sự hài hoà kỳ lạ. Món lòng gà xào dứa, với gan màu vàng, mề màu tím xoè tám cánh như hoa hồi, dứa tỉa uốn hình hoa màu ngà trắng, bên trên điểm mấy ngọn ngò xanh, vài tia ớt đỏ. Cả đến giò mỡ cũng bị chìm đi trong sắc vàng của trứng và năm màu của ngũ sắc được xếp khéo léo tài tình.”(2).
Trang phục điển hình nhất của Huế là nón Huế và áo dài tím Huế. “Nón xứ Huế có dáng mỏng như tờ giấy, nhẹ nhàng như cánh nhạn, đẹp và bền, được nhiều người ưa thích”(3). Còn áo dài tím Huế như vẻ đẹp dịu dàng, khiêm nhường, e ấp của người con gái Huế. GS Ngô Đức Thịnh đã từng viết, đại ý: màu tím là màu sáng nhẹ nhàng, e ấp, phát ra những bước sóng ngắn nhất để tô điểm thêm thẩm mỹ tinh tế của người phụ nữ Huế(4).
Từ những luận giải như đã trình bày ở trên, vấn đề đặt ra ở đây là văn minh đô thị Huế cần phát triển như thế nào để phù hợp với đặc trưng văn hoá Huế?
Văn minh đô thị thực chất là giải quyết các vấn đề lớn sau đây: quy hoạch đô thị, hình thành đông đảo tầng lớp thị dân và quá trình công nhân hoá. Thiếu một trong những vấn đề trên thì sự phát triển đô thị sẽ lệch lạc, phiến diện và không bền vững; bởi vì quy hoạch đô thị là sự kết hợp tổng thể giữa các vấn đề môi trường, lịch sử, văn hoá và dân cư, còn hình thành đông đảo tầng lớp thị dân và quá trình công nhân hoá diễn ra mạnh mẽ là quy luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đô thị.
Trước hết, nói về quy hoạch đô thị ở thành phố Huế. Quy hoạch đô thị nào cũng phải dựa trên cảnh quan địa hình, đặc trưng văn hoá truyền thống, nhất là các công trình kiến trúc cổ, kiến trúc tôn giáo và các quy luật kinh tế – xã hội của đô thị. Đô thị Huế vì vậy theo chúng tôi phải được quy hoạch theo sáu tiểu vùng sau:
– Vùng đô thị cổ ở bờ Bắc sông Hương: gồm cả khu vực quần thể di tích cố đô ở phía đông bắc thành phố. Đây là khu vực phân bố dày đặc các di tích lịch sử văn hoá như phủ đệ, Hoàng thành, lăng tẩm, nhà vườn, phố cổ bao Vinh, Gia Hội, Chi Lăng, Chợ Dinh. Vùng đô thị này cần phát triển theo hướng quy hoạch bảo tồn, trùng tu để phát huy giá trị lịch sử – văn hoá, giá trị kinh tế du lịch là chính.
– Vùng đô thị thương mại – dịch vụ du lịch hai bên bờ sông Hương: gồm khu đô thị thương mại Đông Ba – Trần Hưng Đạo ở bờ Bắc sông Hương và khu dịch vụ du lịch Lê Lợi – Hùng Vương – Nguyễn Huệ – Nguyễn Sinh Cung – Cồn Hến bên bờ Nam sông Hương. Vùng đô thị này nên chú trọng phát triển theo hướng thương mại và dịch vụ du lịch (siêu thị, khách sạn, nhà hàng, khu du lịch vui chơi, nghỉ dưỡng…).
– Vùng đô thị di tích lịch sử – tôn giáo và huyền thoại ở tây nam thành phố: gồm hệ thống các chùa chiền, đền miếu, đàn tế trời, các lăng tẩm và các đồi thông, các hồ…Nên quy hoạch vùng này theo hướng chú trọng màu xanh thiên nhiên, tượng đài, biểu tượng, di tích để biến nơi đây thành khu du lịch tôn giáo và huyền thoại tạo nên một không gian tâm linh, không gian tinh thần cho thành phố.
– Vùng công nghiệp hiện đại ở đông nam thành phố: tập trung các nhà máy như nhà máy dệt may, dày dép, gạch men, khu công nghiệp và sân bay Phú Bài…
– Vùng đô thị “kinh tế mở” ở phía đông thành phố: với tầm nhìn hướng ra biển và lợi thế về thiên nhiên trong lành, mát mẻ. Vùng đô thị này sẽ xây dựng các khu kinh tế hiện đại, bao gồm các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giao lưu, buôn bán và dịch vụ du lịch, khu dân cư…
– Vùng đô thị vệ tinh: bao gồm các “làng đô thị” ven thành phố, như làng chuyên sản xuất mộc mỹ nghệ, làng sản xuất gốm men lam, làng chuyên canh rau quả, làng hoa, làng dịch vụ du lịch và thương mại…Điều đặc biệt của “làng đô thị” là sự tồn tại hai thành phần dân cư: dân làng và phi dân làng; trên cơ sở đó quan hệ dòng tộc và quan hệ láng giềng vẫn được duy trì. Vì vậy quan hệ xã hội trong “làng đô thị” hoàn toàn khác với tình làng nghĩa xóm của văn minh đô thị.
Về kinh tế, “làng đô thị” chú ý đến việc tập hợp nguồn lực lao động thành các xí nghiệp cổ phần vừa và nhỏ dựa trên sự quản lý của họ tộc, tổ chức tự quản làng xã và bộ máy hành chính nhà nước. Vì vậy, “làng đô thị” chú trọng đến chuyên môn hoá nghề nghiệp để tạo nên các sản phẩm có chất lượng cao như mộc mỹ nghệ, gốm mem lam, hoa quả tươi…
Về kết cấu kiến trúc, “làng đô thị” tồn tại các loại nhà cửa sau đây: nhà truyền thống, nhà đô thị hiện đại, nhà thờ họ, đình chùa, nhà mẫu giáo, nhà dưỡng lão…
Sự tồn tại các loại “làng đô thị” như vậy sẽ giải quyết được tình trạng hẩng hụt của quá trình công nhân hoá người nông dân. Điều đó có nghĩa là chấp nhận sự tồn tại một loại cấu trúc xã hội làng trong văn minh đô thị. Chỉ có điều người dân trong “làng đô thị” không còn như người nông dân trước đây quen với lối sống cá nhân, tự cung tự cấp, khép kín, mà xã hội làng đã được mở rộng, lao động của người dân có tính cạnh tranh, tính hàng hoá cao hơn.
Như vậy, trong quá trình phát triển đô thị Huế, chúng ta không nên chấm dứt, đoạn tuyệt hoàn toàn với cấu trúc xã hội làng xã – một cấu trúc đã ăn sâu vào tâm lý, tình cảm của mọi người dân. Vấn đề là cần chuyển tiếp hợp lý quá trình nông dân – nông thôn – nông nghiệp truyền thống thành quá trình công nhân – “làng đô thị” hiện đại. Làm được điều đó chúng ta sẽ giải quyết được cơ bản vấn đề việc làm và giảm áp lực tăng dân số cơ học.
Thứ hai, quá trình đô thị hoá và quá trình công nhân hóa. Đây là quá trình phát triển các quy luật cạnh tranh, buôn bán trong đô thị và quá trình phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện đại. Quá trình phát triển này sẽ giải quyết được vấn đề việc làm và nâng cao tăng trưởng kinh tế của đô thị. Sẽ không thể nào xây dựng được nếp sống văn minh đô thị nếu như đô thị đó không thu hút được nguồn lực lao động, không giải quyết được vấn đề việc làm. Số dân lao động tự do, bán thất nghiệp còn nhiều thì không thể nào phát triển văn minh đô thị được. Đành rằng giải quyết vấn đề việc làm là hết sức phức tạp, nhưng trước hết, mỗi lực lượng lao động trong đô thị như bốc xếp, xe ôm, xe xích lô, công nhân xây dựng…nhất thiết phải được tổ chức thành các tổ đội có sự điều hành và quản lý chứ không thể để tùy tiện, tự do, mạnh ai nấy làm theo nếp nghĩ, nếp làm của người nông dân. Lao động đô thị là lao động có tính tổ chức, kỷ luật cao. Vì vậy, phải loại bỏ dần các hàng quán rong trên vỉa hè, những lán lều lụp xụp trong đô thị.
Ở đây, vấn đề đặt ra là môi trường việc làm của dân cư đô thị. Không giải quyết tốt điều này rất khó nói đến việc xây dựng văn minh đô thị. Môi trường việc làm của đô thị hoàn toàn khác với môi trường nông thôn, nông nghiệp – lao động tự do, tuỳ tiện. Đó là môi trường của những người công nhân lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, các khu chế xuất…Hiện nay, nhiều đô thị ở nước ta, trong đó có Huế, hiện tượng số người trong độ tuổi lao động không có việc làm ổn định còn rất nhiều (bằng chứng sinh động là các quán cafe, quán bia vỉa hè luôn đông người vào bất cứ giờ nào). Lối sống đó hoàn toàn xa lạ với cư dân đô thị. Và một khi tính tổ chức kỷ luật trong lao động không được chú trọng thì lối sống đô thị dựa trên pháp luật, trên chuẩn mực xã hội một cách tự giác luôn bị xâm phạm, phá vỡ.
Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá nước ta đã từng nhận xét, đô thị Việt Nam chỉ là loại hình liên làng và siêu làng, người dân vẫn có thói quen sống trong làng quê, với tính dân dã tuỳ hứng của thôn quê, vẫn là con người có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp hơn là giao lưu buôn bán ở thị thành và sản xuất trong các nhà máy.
Điều đó hoàn toàn đúng, người Việt Nam quen sống ở làng quê. Trước đây trên 90% dân số Việt Nam là nông dân – nông thôn – nông nghiệp, nay con số đó cũng không dưới 70%. Hơn nữa đô thị Huế cũng như nhiều đô thị khác ở nước ta, con đường đi lên của đô thị là từ Đô (trung tâm chính trị), rồi sau mới là Thị (buôn bán), nên tính dân dã và sự quan liêu là điều không thể tránh khỏi trong quá trình phát triển đô thị Việt Nam.
Vấn đề ở đây là một thành phố muốn phát triển văn minh hiện đại, phải đẩy nhanh quá trình thị dân hoá (buôn bán với quy luật cạnh tranh kinh tế) và quá trình công nhân hoá (xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút đầu tư và tập trung ngày càng nhiều nhân lực lao động). Không giải quyết được hai vấn đề này tăng trưởng kinh tế của đô thị sẽ yếu kém và trì trệ. Cái khó là ở chỗ, Huế là thành phố du lịch nên vừa phải chú trọng quy hoạch trùng tu, bảo tồn, vừa quy hoạch phát triển văn minh đô thị. Nếu không chú trọng phát triển mạnh mẽ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…thì văn minh hiện đại của thành phố bị hạn chế. Nhưng chú trọng đến mức bỏ qua các yếu tố bảo tồn thì cũng là điều không nên. Ở đây, chúng ta cần quy hoạch tổng thể thành những khu đô thị bảo tồn và khu đô thị phát triển để khỏi dẫm đạp và chồng chéo giữa xu hướng bảo tồn và xu hướng phát triển. Các khu đô thị bảo tồn thì nên khoanh vùng trùng tu bảo quản và nương theo đó để phát huy giá trị (kể cả giá trị kinh tế) cho thành phố. Các khu đô thị không cần bảo tồn thì tăng cường mở rộng phát triển văn minh đô thị theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá và thương mại hoá.
Vì lẽ đó, phát triển đô thị Huế không thể làm vội vàng, nhất thời, manh mún, duy ý chí, mà phải chú trọng đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố lịch sử, văn hoá, địa hình, dân cư với văn minh đô thị.
Làm được như vậy, Huế sẽ trở thành một thành phố văn minh hiện đại trong cổ kính và thơ mộng.
CHÚ THÍCH:
(1) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1969), Đại Nam Nhất Thống Chí (thời Tự Đức) bản dịch của Viện Sử Học, NXB. KHXH, Hà Nội, tr.11
(2) Đinh Gia Khánh (1989), Phong vị Việt Nam, Công ty xuất bản đối ngoại, Hà Nội, tr.169
(3) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam Nhất Thống Chí, NXB Thuận Hoá, Huế, tr.284
(4) Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc Viêt Nam, NXB. VHDT, Hà Nội, tr.74
|