New Page 1

Số 9 – Quý I – 2006


VĂN HOÁ – XÃ HỘI

Cồng chiêng Tây Nguyên – Kiệt tác di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại

Ở nước ta, cồng chiêng có từ lâu đời. Trên mặt trống đồng Đông Sơn, ở vòng hoa văn thứ tư (tính từ trong ra) trong số chín vòng hoa văn có chạm trổ một dàn cồng bảy chiếc, chia làm hai nhóm treo ở hai bên trái, phải của một cái giá hình vòm, ở giữa có người đứng hai chân trụ, hai tay dang rộng, đánh cùng một lúc hai cồng treo ở hai bên. Như vậy, có thể khẳng định cồng chiêng có trước hoặc cùng thời đại với trống đồng. Nhiều dân tộc có âm nhạc cồng chiêng, nhưng tập trung nhất vẫn là các dân tộc ở Tây Nguyên. Có thể nói các dân tộc Tây Nguyên đều có âm nhạc cồng chiêng. Đó là tài sản vô giá của từng cộng đồng các dân tộc sống trên miền núi cao này. Hơn thế, đó là tài sản chung của các dân tộc Việt Nam anh em.

Là một loại âm nhạc cổ truyền có tính cộng đồng, vì vậy, cộng đồng còn thì âm nhạc cồng chiêng còn, và ngược lại, cồng chiêng còn có nghĩa là cộng đồng còn. Cồng chiêng và âm nhạc cồng chiêng gắn liền với đời sống sinh hoạt cộng đồng. Những nhà giàu được tính là giàu khi có mấy bộ cồng chiêng. Những làng buôn giàu có được gọi là giàu có vì làng ấy, buôn ấy có nhiều bộ cồng chiêng quý, càng cổ càng quý.

Ở Tây Nguyên, có đến vài nghìn bộ cồng chiêng. Có những chiêng quý là vật gia bảo, đời cha truyền lại cho đời con, được đúc bằng đồng đen hoặc có pha vàng, pha bạc ở núm như chiêng Pat vùng Chư Pa, chiêng Pơ-sơi vùng A Dun Pa, đường kính đến một mét. Loại chiêng này, khi đánh lên, âm vang xa, tiếng ngân rền như tiếng sấm, trị giá bằng bốn mươi con trâu hoặc một con voi được thuần dưỡng tốt.

Mỗi dân tộc có một dàn cồng chiêng riêng của mình như dân tộc Pa Na có dàn chiêng gồm 13 chiếc, dân tộc Ê Đê có dàn chiêng 9 chiếc, dân tộc Mnông, Mạ có dàn cồng chiêng 6 chiếc…

Có những dân tộc có nhiều dàn cồng chiêng, mỗi dàn dùng trong một số lễ hội nhất định như dân tộc Gia Rai có 5 dàn chiêng, dân tộc Gié Triêng có 3 dàn chiêng…

Cồng chiêng của mỗi dân tộc có những sắc thái riêng, có lối diễn tấu riêng. Cồng chiêng Gia Rai khỏe mạnh, hùng tráng. Cồng chiêng Ba Na dịu dàng, tươi mát. Cồng chiêng Ê Đê rộn ràng sôi động. Cồng chiêng Xơ Đăng say sưa, quyến rũ. Công chiêng Giá Triêng có chiều sâu hấp dẫn cao.

Cồng chiêng có mặt trong tất cả các lễ hội: mừng Tết, làm nhà mới, cầu mưa, lễ đâm trâu tạ Giàng, đâm trâu mừng chiến thắng, lễ ăn cơm mới…

Cồng chiêng ngân vang suốt cuộc đời của mỗi người từ khi được sinh ra cho tới lúc “xuống ở dưới nhà mồ”. Tiếng chiêng hòa lẫn tiếng khóc chào đời của em bé, rồi đến lễ “thổi tai” mừng em đầy tháng. Tiếng chiêng vui tươi rộn ràng trong ngày cưới. Tiếng chiêng buồn thương khi giã từ cõi đời. Và cuối cùng là tiếng chiêng với nhạc điệu A-tấu trong lễ bỏ mả…Khi vui có bài vui. Lúc buồn có bài buồn. Mỗi lễ hội có bài riêng. Chỉ cần nghe tiếng cồng chiêng ở buôn làng nào thì người ta hiểu ngay làng ấy, buôn ấy đang có việc gì, sự kiện gì. Niềm vui và nỗi buồn được tiếng chiêng chia sẻ, ngân vang đến các buôn làng xa xôi.

Cùng đi với âm nhạc cồng chiêng một cách hài hòa là các điệu múa dân gian của các dân tộc như điệu múa của dân tộc Gia Rai khỏe mạnh, dũng cảm, đầy tính thượng võ; điệu múa của các cô gái Ba Na uyển chuyển, duyên dáng, giàu chất thơ; điệu múa của các cô gái Ê Đê sôi động…Những người đến dự lễ hội cùng cầm tay nhau nhảy múa sôi nổi, nhiệt tình trong không gian đầy âm thanh của hàng chục dàn cồng, trong hương vị ngây ngất men rượu cần, trong màu sắc rực rỡ của trang phục dân tộc, quanh ngọn lửa hồng rực cháy, trong khung cảnh núi rừng hùng vĩ. Ở đây, thật khó phân biệt được ai là người biểu diễn nghệ thuật và ai là người thưởng thức nghệ thuật, tất cả đều chan hòa trong sinh hoạt nghệ thuật cộng đồng.

Cồng chiêng tập hợp chung quanh mình nhiều loại hình nghệ thuật khác như múa, hát, rối giật hoặc các trò chơi giải trí dân gian rất phong phú và hấp dẫn. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa nguyên hợp của thời kỳ cộng đồng xa xưa. Các loại hình nghệ thuật, các trò chơi giải trí gắn bó với nhau một cách chặt chẽ, tạo thành một thể thống nhất mà cồng chiêng là nền tảng.

Từ ngàn đời nay, qua bao thăng trầm lịch sử, qua bao biến đổi của buôn làng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sáng tạo và định hình loại nhạc khí phù hợp với cuộc sống của núi rừng. Tiếng cồng chiêng vẫn hòa quyện trong gió núi, mưa ngàn, theo nhịp nước thác đổ ngày đêm để nói lên niềm vui và nỗi buồn, ước mơ và hy vọng, tâm tư và tình cảm của các dân tộc anh em. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống hàng ngày của đồng bào Tây Nguyên, xuyên suốt cả cuộc đời người, thực sự là linh hồn, là xương, là thịt của các dân tộc ở đây.

Cồng chiêng Tây Nguyên mang tính cộng đồng nguyên thủy, được hình thành từ bản địa khu vực, là một loại hình văn hóa âm nhạc độc đáo còn giữ nguyên bản sắc riêng biệt của mình.

Chiều ngày 25/11/2005, tại Trụ sở Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) ở Pa-ri (Pháp), Cồng chiêng Tây Nguyên Việt Nam đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây là loại hình văn hóa phi vật thể thứ hai của nước ta được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản thế giới, sau Nhã nhạc Cung đình Huế (năm 2003).


Văn Hoá

Các bài khác

Bác Hồ ăn Tết xứ người

Tiền mừng tuổi của Bác

Chuyện hai con chó của Cụ Phan Bội Châu

Phục hồi tranh tường cổ

Chén rượu của Bác Hồ

Thành lập Bệnh viện Mắt Huế

Thành lập Trường Cao đẳng Y tế

Thành lập Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế

















 






New Page 1

Chọn chuyên đề

Chọn bản tin: