TIN NHANH
 

.



* Chịu trách nhiệm chính:

       NGUYỄN VĂN QUẾ

* Giấy phép số: 229/GP-BC

* Cấp ngày: 12/12/2005 

Tổng số truy cập:
1121469
Số người đang truy cập:
186


Số 2 – Quý II năm 2004

Diễn đàn

Một số vấn đề về xây dựng các hồ chứa nước ở thượng nguồn sông Hương

Tương lai của cố đô Huế nói riêng, lưu vực sông Hương nói chung sẽ ra sao, phụ thuộc nhiều vào việc quy hoạch chỉnh trị, khai thác hệ thống sông Hương. Vì vậy, ngay trong giai đoạn xây dựng quy hoạch và dự án ngoài những chuẩn mực chung phải đặc biệt lưu ý các vấn đề sau.

1. Đảm bảo nguyên tắc tổng hợp lợi dụng tài nguyên nước và chọn phương án tối ưu

Trong phạm vi lưu vực sông Hương, giữa nhu cầu dùng nước cho phát điện, cung cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, bảo đảm môi trường cơ bản không có mâu thuẫn. Chỉ có mâu thuẫn giữa yêu cầu chống lũ cho hạ du và quyền lợi của ngành điện. Trong trường hợp tăng dung tích hồ để phòng chống lũ thì lượng điện sẽ giảm đáng kể. Nếu công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách thì mâu thuẫn trên không có vấn đề gì lớn. Vì yêu cầu lợi dụng tổng hợp nguồn nước để chống lũ là mục tiêu số 1, nên hồ Tả Trạch phải dành ~ 400 triệu m3 để chống lũ cho hạ lưu. Tuy mực nước chết ở cao trình +23m, nhưng để bảo đảm nguồn nước cấp cho các ngành, đẩy mặn ở hạ du, nên mực nước trước lũ đặt ở cao trình +35m, ứng với dung tích 217,4 triệu m3. Cuối mùa lũ, nếu năm đó nước mưa ít, trữ không đầy hồ thì vẫn đảm bảo nhu cầu nước cho các ngành. Theo tôi, sau khi đập Thảo Long hoàn thành, có tác dụng ngăn mặn, giữ ngọt cho sông Hương, chúng ta có khả thể đưa mực nước trước lũ xuống cao trình mực nước chết +23m, dung tích chống lũ sẽ tăng từ 392,6 triệu m3 lên 610 triệu m3, mực nước lũ tại Huế giảm xuống cao trình +3,0m chứ không phải +3,5m như tính toán của JBIC. Theo đó, phát điện chỉ còn 18MW và điện lượng chỉ đạt 60 triệu kWh. Trường hợp ưu tiên cho phát điện, chúng ta có thể lắp công suất 40 – 70MW, điện lượng bình quân có thể đạt 160 ~ 280 triệu kWh/năm.

Đối với hồ Hữu Trạch (Bình Điền) và hồ sông Bồ (Cổ Bi) tình hình phức tạp hơn. Ngay đến công trình hồ Tả Trạch, chuẩn bị từ năm 1985, trình Chính phủ dự án khả thi từ cuối năm 1986, nhưng do không có kinh phí nên phải kéo dài mãi đến nay. Cuối cùng, chúng ta phải vay vốn ODA của Nhật Bản để triển khai một số hạng mục công trình. Những công trình hồ chứa khác phải hàng chục năm nữa mới có khả năng xây dựng. Trong hoàn cảnh đó, ngành điện (Tổng công ty Sông Đà, Tổng cục Điện lực vv..) có ý định xây dựng hai hồ Bình Điền và Cổ Bi nhằm mục đích phát điện.

Giải quyết mâu thuẫn này phải xuất phát từ hiệu ích xã hội tối đa, hiệu ích của các ngành hợp lý. Muốn vậy phải căn cứ hiệu ích mang lại cho các ngành để phân vốn đầu tư. Vì giải quyết nhiệm vụ tổng hợp, công trình có thể lớn, đầu tư nhiều, nhưng kinh phí đầu tư phân cho ngành điện chỉ tương ứng hiệu ích mang lại cho ngành điện từ lợi nhuận kinh doanh điện năng. Một phần kinh phí xây dựng (và cả kinh phí quản lý) phải phân cho các ngành khác có hưởng lợi, ví dụ chống lũ, nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, môi trường vv… Số kinh phí này các ngành liên quan phải chịu để tính vào giá nước khi cấp cho các ngành. Kinh phí đầu tư cho việc chống lụt sẽ do ngân sách nhà nước đảm nhiệm.

 

2. Vấn đề đánh giá tác động môi trường

Quốc tế quy định loại đập lớn là loại đập có chiều cao từ 15m trở lên, tính từ nền. Nếu đập cao từ 5 đến 15m và có hồ chứa hơn 3 triệu m3 nước thì cũng được xếp vào loại đập lớn. Như vậy, hồ Tả Trạch với chiều cao đập » 55m, dung tích » 600 triệu m3, hồ Bình Điền đập cao » 85m, dung tích » 600 triệu m3, hồ Cổ Bi đập cao » 50 ~ 60m, dung tích » 300 ~ 500 triệu m3 nước đều thuộc loại rất lớn. Các hồ Tả Trạch và Bình Điền lại rất gần thành phố Huế và các khu dân cư tập trung. Do đó, ngoài những nội dung cần phải đề cập tới của một báo cáo đánh giá tác động môi trường theo luật định thì việc đánh giá tác động môi trường dự án khả thi hồ chứa nước Tả Trạch phải nghiên cứu rất kỹ lưỡng các vấn đề sau.

Về ổn định của đập

Chúng ta không đặt vấn đề có xảy ra sự cố vỡ đập, gây đại hoạ khó lường, nên phải tính toán với tần xuất bảo đảm rất cao. Dù cho đã tính với lũ 0,5% và kiểm tra với lũ p= 0,1% cũng phải bố trí thêm một tràn sự cố (hồ Tả Trạch tràn sự cố có chiều dài 100m ở độ cao +52m, hồ Bình Điền cũng phải bố trí hạng mục này).

Vấn đề diễn biến hạ du

Đập Bình Điền với cao trình đỉnh đập 87m, cao trình ngưỡng tràn ở 73m thì từ cao trình 73m, với lưu lượng tràn với p= 0,5% là 6213,43 m3/s và khi với p= 0,1% thì lưu lượng tràn qua đập là 7550,84 m3/s, cách lăng Minh Mạng khoảng 6km, cách Huế 23km, không ai có thể lường trước được việc gì sẽ xảy ra ở hạ lưu nói chung và thành phố Huế nói riêng. Lòng sông Hương sẽ thay đổi lớn, mực nước sông Hương trong mùa hè sẽ giao động rất lớn trong ngày vì 3 lý do: động năng lớn của khối nước tràn, sự thay đổi hàm lượng bùn cát trong nước trước và sau khi có hồ chứa, nhà máy thuỷ điện hoạt động ở phần lưng của biểu đồ phụ tải điện. Các yếu tố đó cùng xảy ra làm cho hiện tượng xói lở hạ du trở nên phức tạp và có thể gây phương hại cho di sản Huế. Điều này bắt buộc các nhà tư vấn phải tính toán, cả bằng mô hình vật lý, để xác định được diễn biến sau khi hình thành công trình. Chưa có đáp số đó và các biện pháp ngăn chặn nó thì chúng ta chưa thể xây dựng công trình.

Vấn đề quan hệ giữa các hồ chứa và đầm phá

Đầm phá là thế mạnh của Thừa Thiên Huế, xây dựng hồ chứa nước ở thượng nguồn sẽ ảnh hưởng đến đầm phá như thế nào là câu hỏi phải được trả lời nghiêm túc.

Vấn đề xử lý mối quan hệ giữa các đối tác đang nghiên cứa trên hệ thống sông Hương

Hiện nay có nhiều đối tác trong và ngoài nước đang hoạt động trên lưu vực sông Hương. Nhật Bản đang cùng Bộ NN&PTNT chuẩn bị khẩn trương cho việc xây dựng đợt 1 công trình Tả Trạch với mục tiêu là giảm lụt cho thành phố Huế và hạ du. Các công ty của ngành điện cũng đang tích cực để chuẩn bị xây dựng thuỷ điện Bình Điền và Cổ Bi. Do vậy, cần coi trọng thứ tự xây dựng các công trình mà Bộ NN&PTNT đã thoả thuận với Nhật Bản. Nếu có sự đảo ngược về thứ tự xây dựng sẽ dẫn đến hậu quả là các số liệu tính toán của JBIC trong 2 năm qua, nhất là dự báo diễn biến môi trường tự nhiên ở hạ du sẽ không còn ý nghĩa, có khả năng gây khó khăn cho việc chuẩn bị xây dựng hồ Tả Trạch.

Xây dựng các hồ chứa lớn ở thượng nguồn sông Hương để khai thác tổng hợp nguồn nước là một vấn đề lớn, góp phần quan trọng cho sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội của tỉnh nhà, nhưng sẽ đụng đến vấn đề môi trường cực kỳ nhạy cảm. Giữ sao cho sông Hương mãi mãi là con sông thơ mộng, hiền hoà, đẹp giữa lòng cố đô Huế là trách nhiệm của chúng ta hôm nay và muôn đời sau./.

TS. Hồ Ngọc Phú, Chủ Tịch Hội KHKT Thuỷ lợi

Chọn số:

Chọn chuyên mục: