Tăng huyết áp (THA) là một yếu tố nguy cơ độc lập đốí với bệnh lý tim mạch. Khoảng 29% dân số nước Mỹ (trên 50 triệu người) bị THA. Theo thống kê của Viện Tim mạch Việt nam, năm 1988, tỉ lệ người Việt Nam bị THA là 11,2%, tại Huế là 5,8%. Một nghiên cứu gần đây cho biết chỉ riêng ở Miền Bắc nước ta điều tra toàn dân năm 2001 tỉ lệ THA là 16,3%!
Huyết áp bao gồm hai trị số: huyết áp tâm thu, tương ứng lúc tim bóp và huyết áp tâm trương, khi tim giãn. THA khi trị số HA trên 140mmHg đối với HA tâm thu và trên 90mmHg đối với HA tâm trương. Cả hai trị số đều có vai trò quan trọng như nhau. Tháng 5/2003, báo cáo lần thứ 7 Liên hiệp Hội THA Quốc gia Hoa kỳ (viết tắt là JNC VII) về dự phòng, phát hiện và đánh giá điều trị THA đã lưu ý trị số huyết áp tâm thu hoặc giới hạn trên có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ. Đồng thời theo JNC VII, tiền THA khi trị số HA tâm thu trong khoảng 120-139mmHg và HA tâm trương trong khoảng 80-89mmHg.
Bảng 1: Đề xuất phân độ THA của JNC VII
Phân độ
|
HA tâm thu
mmHg
|
HA tâm trương
mmHg
|
Thay đổi
lối sống
|
Khuyến cáo điều trị
|
– Bình thường
– Tiền THA
– THA giai đoạn 1
– THA giai đoạn 2
|
<120
120-139
140-159
>160
|
< 80
80-89
90-99
>100
|
+
+
+
+
|
0
0
+
+
|
Ảnh hưởng bệnh lý của tiền THA Tiền THA có xu hướng phát triển thành THA cùng các biến chứng của THA thường gặp như bệnh lý chủ mô thận, mù mắt, mất trí (Alzeimer). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, nguy cơ tim mạch gia tăng khi HA>115/75mmHg. Cụ thể nguy cơ tăng gấp đôi mỗi khi HA tăng 20mmHg đối với HA tâm thu và HA tăng trên 10mmHg đối với HA tâm trương.
Tỉ lệ tiền THA chưa được xác định ở tất cả các nơi, trong đó có cả nước ta, vì phụ thuộc nhiều mặt liên quan điều kiện điều tra, nghiên cứu. Riêng tại Hoa kỳ, nơi được cho là nguyên nhân của 9,1% tử vong, 6,7% trường hợp phải điều trị tại nhà và 3,4% điều trị tại bệnh viện mỗi năm đối với nhóm tuổi từ 25-74 tuổi (theo nghiên cứu của Cơ quan nghiên cứu sức khoẻ và chất lượng Hoa kỳ – AHRQ). Đáng chú ý là một nghiên cứu liên quan đến protein phản ứng C (CRP) ở bệnh nhân tiền THA. CRP là một chất chỉ điểm viêm dự báo nguy cơ tim mạch. Sự gia tăng CRP liên quan đến các biến cố xơ vữa, tăng đường máu, kháng insulin…Nghiên cứu của Tổ chức Dinh dưỡng và Sức khoẻ Hoa kỳ lần thứ III (NHANES III) từ năm 1988 đến năm 1994 cho thấy, có sự gia tăng dần dần của CRP theo trị số huyết áp. Người có tiền THA có tỉ lệ gia tăng CRP cao hơn người HA bình thường, 27,4% so với 19,8%, p<0.05. Một nghiên cứu trên 8347 người Hàn quốc cho thấy sự gia tăng tỉ lệ THA đi kèm với mỗi tứ phân vị CRP. Sesso và cs. cho thấy sự gia tăng CRP ở nữ giới có HA bình thường hoặc tiền THA đi kèm sự gia tăng nguy cơ phát triển THA về sau.
Điều trị Tiền THA Khác với THA, điều trị tiền THA chủ yếu cải thiện đời sống giúp làm chậm hoặc ngăn ngừa sự tiến triển thành THA chứ thường là không dùng thuốc, trừ khi có nhiều yếu tố nguy cơ cao khác phối hợp như suy tim, bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, suy thận. Theo Chương trình giáo dục THA Quốc gia Hoa kỳ, các biện pháp bao gồm: 1) Giảm cân: nghiên cứu cho thấy khi cân nặng giảm đi 10 pounds sẽ làm giảm HA tâm thu đến 10mmHg. 2) Tăng cường hoạt động thể lực: cần tập ít nhất 30 phút mỗi ngày trong tuần. Cần phải liên hệ bác sĩ để xem khả năng thích ứng thể lực. 3) Ăn uống vệ sinh: thức ăn cần ít chất béo bảo hòa, cholesterol và giàu chất đạm, trái cây, sữa ít mỡ. 4) Giảm mỡ: không được dùng quá 2,4g Natri (khoảng 1 muỗng canh) mỗi ngày. 5) Hạn chế rượu: không uống quá 2 lần mỗi ngày đối với nam và 1 lần đối với nữ.
Kết luận: Tiền THA vẫn là khái niệm bệnh lý mớí, đặc biệt là ở nước ta. Việc phát hiện và theo dõi nhóm bệnh mớí này là vấn đề cần đặt ra cho các nhà quản lý sức khoẻ cộng đồng. Trước mắt, càng sớm càng tốt nên có một chương trình nghiên cứu về tỉ lệ tiền THA trong cộng đồng tại tỉnh nhà nói riêng và nước ta nói chung.
PGS.TS. Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch hội Tim mạch TT – Huế
|