Sơn truyền thống trên nghệ thuật trang trí thời Nguyễn – Thực trạng, giải pháp và hướng bảo tồn
Sơn truyền thống trên trang trí di tích thời Nguyễn là những đồ sơn có giá trị thẩm mỹ độc đáo. Trải qua hơn một thế kỷ, sơn truyền thống trên trang trí vẫn tồn tại, có tính dân dã và tính tâm linh. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa nhân văn Chân –Thiện –Mỹ. Những sắc màu cổ kính của chất liệu sơn truyền thống hòa quyện với hoạ tiết trang trí, biểu hiện rõ nét trên các công trình kiến trúc, mỹ thuật cung đình thời Nguyễn như Điện Thái Hoà, Thế Miếu, Hưng Miếu, Hiển Lâm Các… và một số lăng tẩm khác. Qua khảo sát, trao đổi với các chuyên gia và dựa trên các tư liệu thu thập được, chúng tôi trình bày vai trò và thực trạng của việc sử dụng Sơn truyền thống trong nghệ thuật tạo hình trang trí tại một số công trình di tích ở Thừa Thiên Huế. Từ đó, đưa ra những kiến nghị và giải pháp đối với việc bảo tồn Sơn truyền thống trên nghệ thuật trang trí thời Nguyễn.
1. Đặt vấn đề
Thời gian và không gian là quy luật của sự tồn tại mọi vật chất trong đời sống xã hội. Trong đó Sơn truyền thống (STT) trên nghệ thuật trang trí di tích thời Nguyễn không ngoại lệ, thời Nguyễn đã biết làm đẹp giang sơn bằng chất liệu STT trên những công trình kiến trúc gỗ với những kiến trúc tiêu biểu như cổng Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Hưng Miếu, Thế Miếu, hiển Lâm Các….
Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, trong quá trình quản lý và bảo tồn phải đối mặt biết bao áp lực từ những công trình mang tính truyền thống cổ kính, áp lực của môi trường đem lại về thời tiết, tác hại của loài côn trùng mối, chúng ảnh hưởng trực tiếp lên trên các công trình kiến trúc của chất liệu sơn. Nên chúng ta cần phải bảo tồn các giá trị văn hóa di sản mà cha ông ta đã để lại, bằng những kỹ thuật trong chất liệu và tìm ra những giải pháp ưu việt để hạn chế những nhược điểm trong công tác bảo tồn di tích thời Nguyễn.
2. Nội dung
2. 1. Vai trò của STT trong các công trình kiến trúc tiêu biểu di tích thời Nguyễn
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho triển khai quy hoạch tổng thể và xây dựng hệ thống các công trình kiến trúc cung đình thời Nguyễn tại Phú Xuân, phần lớn kiến trúc xây dựng theo trục đường Dũng Đạo về hướng Nam tiến. Trong đó vua chú tâm vai trò của STT có chức năng làm đẹp cho vương quyền, mặt khác mô tả các họa tiết trang trí đặc sắc. Mỹ thuật thời Nguyễn giữ được nét riêng, tính độc đáo về kiến trúc và chất liệu STT đã được tác giả Trần Lâm Biền khẳng định trong nghiên cứu Huế, Mỹ thuật Nguyễn, Những cái riêng đã cho rằng “…Cung điện và lăng tẩm của Huế vẫn có cái riêng của chúng. Cái riêng ấy của Huế phải chăng chính là chất cung đình trong Mỹ thuật Nguyễn” [1, tr.177].
2.1.1. Ngọ Môn (1833)
Ngọ Môn (Nam Khuyết Đài) là cửa ngõ phía nam của Hoàng thành thời Nguyễn, nên việc tô son thếp vàng là điều kiện tất yếu. Kiến trúc Ngọ Môn có đến 100 hàng cột, trong đó có 48 trụ cột vươn cao nối trực tiếp đến tầng trên là lầu Ngũ Phượng, tượng trưng vua cha (trời), biểu tượng về sức mạnh của người cha trời truyền sinh khí cho người mẹ là đất và không gian ở giữa dân gian. Người thợ sơn, thợ vẽ làm đẹp Ngọ Môn bằng những tư duy, tình cảm dân tộc được thể hiện trên họa tiết trang trí với chất liệu STT. Họ gia công tỉ mỉ các lớp sơn để có những hàng cột được tô điểm sắc son, không vẽ họa tiết trên các hàng cột, người thợ chỉ vẽ họa tiết rồng hóa cúc và phủ sơn son thếp vàng ở các vì kèo, cấu kiện gỗ. Theo tác giả Trần Lâm Biền trong nghiên cứu Vài cảm nhận qua một lần tới Huế, Huế di sản và cuộc sống khẳng định “…Ngọ Môn rất khác Thiên An Môn về nhiều mặt…, vẫn không hoàn toàn chế ngự được mạch mỹ cảm dân tộc vốn thấm nhuần con mắt và bàn tay của người thợ thi công” [2, tr.187]. Ngọ Môn được trùng tu lại nhiều lần và mới gần đây vào năm 2013, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế tiếp tục bảo tồn toàn bộ kiến trúc của Ngọ Môn và đến năm 2016 cơ bản đã hoàn thành phần kiến trúc gỗ, còn kỹ thuật STT trên ván tường, hàng cột và một số kiểu thức trang trí ở các đầu hồi đang trong giai đoạn thi công.
2.1.2. Điện Thái Hoà (1805)
Điện Thái Hoà là công trình nghệ thuật trang trí quan trọng bậc nhất của cung điện, toạ lạc sau Ngọ Môn, Điện là nơi vua thiết triều, bàn luận và trông coi việc đại sự cùng với các cận thần trong sự nghiệp. Nội thất của Điện được trang trí Ngai vàng và bửu tán bằng STT và kiểu thức trang trí hình tượng rồng. Ngai vàng là nơi vua yết triều được đặt trọng tâm chính giữa, tay cầm, thân ghế của ngai vàng được các nghệ nhân tài hoa chạm khắc rất tinh xảo những họa tiết vân mây có hình tượng rồng… Đặc trưng của Bửu táng là một hệ thống rèm được chạm lộng cầu kỳ, tinh tế với hình tượng rồng đan xen vân mây uốn khúc hoặc rồng chầu Hổ phù (con Qùy), cùng với đường diềm có kết hợp tua rất khéo léo, đặc biệt các họa tiết ở đây được dát vàng lá thuần tuý không phủ hoàng kim và không tô son, tôn vẻ đẹp trang nghiêm ở chốn cung đình. PGS.HS Vĩnh Phối trong nghiên cứu Những kiểu thức trang trí Huế đã trình bày “…Bản chất hòa sắc vàng son rực rỡ trong không gian trầm tối được bài trí gợi nên không khí tưởng niệm trang nghiêm ở điện Thái Hoà – Ngai vàng, trên là bửu tán là trọng tâm nơi tôn nghiêm dành cho các vị Hoàng đế…” [10, tr.124].
Phần bên dưới bệ đỡ của Ngai vàng, tạo thành một khối hình vuông vững chắc được sắp đặt ở dạng bậc cấp, càng lên cao nhỏ dần và xung quanh chạm khắc các hình tượng rồng công phu, tỉ mỉ, cầu kỳ. Chiếc ghế của vua được tạo hình khá hoàn hảo, hai tay cầm và thân ghế được chạm hình tượng rồng sắc sảo với màu đỏ, vàng lá lộng lẫy của STT .
Những hàng cột là điểm nhấn không thể thiếu trong Điện, cùng với những bức liên ba trên nóc điện, toàn bộ được nghệ nhân thực hiện họa tiết và thơ văn đan xen nhau trong các dạng ô hộc với STT. Trong nội thất những hàng cột có ý niệm sâu sắc, biểu tượng của tầng trên truyền sức mạnh xuống đất mẹ hoa sen ở cuối chân cột. Ý nghĩa của hình tượng rồng là sức mạnh của vua là Nhân đại diện cho dân chúng, hình tượng rồng uốn khúc uyển chuyển bao quanh các trụ cột cùng với họa tiết vân mây, tinh tú, lửa, sóng nước được sơn son thếp vàng làm cho cung điện thêm uy nghi, trang nghiêm và tráng lệ.
2.1.3. Thế Miếu (1821 – 1822)
Sau khi vua Gia Long băng hà, vua Minh Mạng cho xây dựng Thế Miếu (Thế Tổ Miếu) thờ cúng vua Gia Long. Tuy nhiên, vua Minh Mạng không chỉ đặt ra mục đích như vậy, mà ý đồ sẽ sử dụng để thờ nhà Nguyễn sau khi băng hà cho đến ngày nay. Thế Miếu toạ lạc ở hướng Tây sau Hiển Lâm Các. Thế Miếu là một công trình kiến trúc khá bề thế, có giá trị thẩm mỹ sơn rõ nét hơn so với các công trình Thái Miếu, Triệu Miếu. Nội thất trong các hàng liên ba trên nóc điện được chạm trổ các kiểu thức trang trí bắt mắt với các đề tài trang trí gần gũi với dân gian. Những hàng cột, bức tường, cấu kiện, đòn tay được sơn thếp công phu tỉ mỉ với những ô hộc và bát bửu đan xen chữ viết chạm nổi ở tầng liên ba, các họa tiết rồng hoá và cúc hóa lồng ghép, đường nét kỷ hà tạo thành những đường diềm trang trí thú vị. Hương án của các vị vua biểu hiện tính nghệ thuật cao, mỗi án thờ có đến 11 hình dạng ô hộc của hình vuông, chữ nhật được chạm lộng tinh tế, sắc sảo hình tượng rồng, phượng, hoa sen, long mã… có lối bố cục thuận mắt, kết hợp với đường diềm chạm lộng tinh tế và khởi sắc của vàng lá.
2.1.4. Hiển Lâm Các (1821 – 1822)
Hiển Lâm Các là công trình có lối kiến trúc thanh tao, có tính nghệ thuật cao với kiến trúc 3 tầng theo hình tháp, chiều dài 21m, rộng 12,8m và chiều cao 16m, trong đó tầng 1 có 24 hàng cột gỗ, tầng 2 gồm có 8 trụ chính cao 12m, có 4 cột xuyên đến tầng thứ 3, chính nơi đây vua Minh Mạng cho xây để ghi lại công lao của nhà Nguyễn và các công thần có công xây dựng, bảo vệ vùng đất Phú Xuân một thời.
Bằng cách bài trí các dạng họa tiết rồng, hoa lá đơn giản được cách điệu, chạm trổ trực tiếp trên các mảng gỗ, khoác lên mình lớp sơn then huyền bí nhưng đầy khí phách. Chất liệu STT ở Hiển Lâm Các khác hẳn với các công trình nghệ thuật khác, người thợ nhấn mạnh màu then (đen), son (đỏ) có tính trang trí rất ấn tượng, ngoại thất tô son lộng lẫy, còn nội thất phủ lên các lớp sơn then bao phủ toàn bộ các họa tiết trang trí. Ở đây vai trò của sơn then thuần túy khác với sắc son bên ngoài, đây chính là điểm nhấn mạnh mẽ cần có để tôn vinh chất liệu STT trong tổng thể các công trình sơn tại Hoàng Thành (Đại Nội) trong Quần thể di tích cố đô Huế.
3. Thực trạng STT trên nghệ thuật trang trí di tích thời Nguyễn
3.1. Thực trạng của loài mối xâm nhập vào các công trình kiến trúc gỗ có STT và các hoạ tiết trang trí
Loài mối là nguyên nhân tác động lớn đến các công trình chất liệu STT. Việt Nam có khí hậu nóng ẩm rất thuận lợi cho loài mối sinh trưởng, phát triển và lan rộng khắp trong thiên nhiên từ miền núi đến đồng bằng, từ nhà ở cho đến các kiến trúc lăng tẩm, cung điện làm bằng các loại gỗ. Qua công tác điều tra, thu thập và tiến hành phân tích về loài mối, trong công trình nghiên cứu của TS. Nguyễn Quốc Huy với bài viết Mối gây hại công trình di tích và biện pháp phòng trừ cho biết “… kết quả 100% các di tích đều có mối xâm hại, trong đó số di tích có 1 loài mối gây hại chỉ chiếm 5%; di tích có 2 loài mối cùng phá hại chiếm 54,3% và có tới 40,7% số di tích có tới 3 loài mối gây hại đối với di tích…” [6, tr.119-120]. Theo ông, có đến 7 loài mối thường xuyên tấn công phá hoại các công trình kiến trúc, mỗi loài có mối nguy hại riêng biệt và làm ảnh hưởng bất lợi đến sự bền vững của các công trình kiến trúc trong di tích, nó có tên khoa học là Cryptotermes domesticus, Coptotermes formosanus, Coptotermes ceylonicus, Odontotermes hainanensis, Odontotermes yunnanenis, Odontotermes angustignathus, Odontotermes proformosanus. Trong 7 loài mối được phát hiện ấy, các nhà nghiên cứu đã xác định vào đặc điểm sinh học của mỗi loài mà bản thân nó gây tác hại đối với mỗi công trình di tích chỉ có 4 loài nguy hiểm nhất đó là Cryptotermes domesticus, Coptotermes formosanus, Coptotermes ceylonicus và Odontotermes hainanensis.
Nhà nước cũng đã công bố 3 sản phẩm phòng trừ loài mối có hiệu quả nhất đó là Metavina 90DP có công dụng xử lý mối, Metavina 10DP có tác dụng phòng trừ mối xâm hại, Metavina 80LS có hiệu quả trong việc trừ loài mối có cảnh quang và vườn cấy nấm. Ngoài ra còn biện pháp loại trừ mối bằng phương pháp hóa học, chế tạo các loại thuốc gây chết loài mối như thuốc nước, thuốc bột… có khả năng diệt cả tộc đoàn mối, sử dụng kỹ thuật bơm thuốc trực tiếp lên mối sống để chúng di chuyển về tổ và lây lan khắp nơi đến tiêu diệt tận gốc.
3.2. Thực trạng của sự tác động xã hội lên các công trình STT và kiểu thức trang trí
Trên thực tế đã có rất nhiều những công trình văn hóa, lịch sử của dân tộc đã bị hư hỏng nặng do hậu quả chiến tranh, có những công trình chỉ còn lại những bức tường trơ trọi, thậm chí có những công trình bị thiêu rụi hoàn toàn. Đồng thời việc quản lý và bảo vệ các di sản văn hóa sau chiến tranh chưa được quan tâm đúng mức, một phần vì đất nước còn quá nghèo nàn, vì ý thức chưa cao của con người. Mãi đến những năm thập niên 80 của thế kỷ XX việc bảo tồn, tôn tạo, trùng tu các di tích mới thực sự được quan tâm. Nhiều Hội thảo được diễn ra bàn luận đến Quần thể Di tích cố đô Huế, mở ra kỷ nguyên mới về bảo tồn di tích, làm sống lại các công trình kiến trúc cung đình thời Nguyễn một thời bị chiến tranh tàn phá.
Bên cạnh sự tác động do hoàn cảnh lịch sử, một nguyên nhân khác làm ảnh hưởng đến Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế là sự xâm lấn của người dân địa phương, họ cư ngụ trên các thành quách của Kinh thành Đại Nội, cho đến năm 2019 chính quyền địa phương chưa giải quyết triệt để và tại nhà hát Duyệt Thị Đường làm cư xá cho học sinh Trường Quốc gia Âm nhạc trong suốt thời gian khá dài kể từ năm 1966 đến 1994. Không những thế, việc khách du lịch tham quan thắng cảnh cũng là yếu tố đáng cân nhắc trong công tác bảo vệ các công trình kiến trúc có STT, người tham quan họ sờ mó, xoa vuốt, tựa người lên các công trình sơn và làm cho mai một dần sơn, hoạ tiết trang trí.
Ngày nay đất nước đã và đang phát triển, việc trùng tu tôn tạo di tích để thúc đẩy hoạt động du lịch, phát triển kinh tế là điều khó tránh khỏi không riêng chỉ Việt Nam mà cả nhiều nước trên thế giới, như ý kiến của Hoạ sĩ Phạm Đức Cường trong tập Kỹ thuật sơn mài đã nhấn mạnh “Tuy nhiên chúng ta cũng rất thận trọng tránh mọi xu hướng chạy theo lợi nhuận mà quên bảo đảm kỹ thuật làm ảnh hưởng không tốt đến tính độc đáo của một ngành cổ truyền của dân tộc” [3, tr.21].
3.3. Thực trạng của việc sử dụng STT không đạt chuẩn (có pha trộn)
Một số công trình có chất liệu STT, có khả năng chịu sự tác động của thời tiết bởi ánh sáng nắng; hiện tượng sơn bị bong tróc ra từng mảng, từng lớp sẽ có nhiều nguyên nhân xảy ra như sử dụng sơn được pha trộn các loại sơn kém chất lượng vào với nhau trong quá trình khuấy sơn, cho lượng dầu hỏa nhiều vào sơn cánh gián… Nguyên nhân khách quan khác cho biết là do sự sinh trưởng của cây sơn có tuổi đời còn non, nên ảnh hưởng lớn đến chất lượng của mủ sơn trong quá trình thu hoạch như mủ sơn kém chất lượng, mủ sơn có độ kết dính yếu, mặt khác họ có thể pha một lượng sơn thịt nhiều hơn sơn mật dầu hoặc trộn thêm nước hay với dầu lửa… Chính những yếu tố đã nêu trên, làm cho các công trình STT trên trang trí di tích thời Nguyễn nhanh chóng xuống cấp, kể cả ánh sáng có cường độ nhẹ cũng đủ làm cho sơn thoái hóa, bị mài mòn dần màu vàng hoàng kim trên hoạ tiết trang trí.
3.4. Thực trạng của việc thếp (dát) bạc quỳ (bạc cựu, bạc lá) thay cho vàng quỳ (vàng cựu, vàng lá) trên các hoạ tiết trang trí
Trên thực tế ở di tích thời Nguyễn, việc người thợ dát bạc lá trên các họa tiết trang trí được coi như câu chuyện bình thường trong việc sơn sửa và bảo tồn. Công việc dát bạc lá hoàn tất, để bảo đảm cho bạc lá khỏi bị chầy xước do các điều kiện khách quan tác động, cần phải phủ lên cho nó một đến hai lớp sơn phủ hoàng kim, nhằm bảo vệ cho bạc lá khỏi bụi bặm bám vào và dễ dàng cho việc lau chùi sạch sẽ.
Muốn có loại sơn phủ hoàng kim đó, người thợ sử dụng loại sơn đã có pha dầu trẩu theo tỷ lệ thích hợp như đã trình bày ở phần kỹ thuật khuấy sơn, yêu cầu khi phủ sơn hoàng kim trên bề mặt của bạc lá để giữ cho nó có màu vàng lá y như vàng lá thật, muốn vậy người thợ có thể dùng hạt dành dành hoặc củ nghệ tươi nghiền nhuyển vắt lọc ra thành nước trộn với một ít rượu (có nồng độ cồn khoảng 450 -500) và cho vào một ít sơn phủ hoàng kim xong phủ lên trên bề mặt của bạc lá, hiệu quả nó cho màu vàng của nghệ hiện trên bạc lá trông như vàng lá vậy.
Phương pháp pha chế sơn hoàng kim chỉ để phủ bạc lá của các công trình son thếp, vì màu kim loại trắng của bạc lá không đúng như màu vàng lá cho nên phải sử dụng lớp sơn này phủ trên bề mặt của bạc giúp cho nó giống như vàng lá thật (đây là lớp màu vàng "ảo" vì khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời sẽ dần bị mất màu vàng). Nếu vàng lá thật thì không cần loại sơn này mà chỉ cần phủ lớp sơn cánh gián có độ trong suốt để phủ và bảo quản khỏi bị trầy xước hoặc bụi bặm bám vào mà thôi. Cần tránh việc khi hợp đồng các công trình STT với giá cả không được thoả thuận sẽ dễ dàng nảy sinh tình trạng người thợ làm sai hợp đồng son thếp, như vậy không đúng theo nghĩa bảo tồn, nếu sử dụng đúng kỹ thuật đúng hợp đồng bằng vàng lá có thể không cần phủ bất kỳ một loại sơn gì lên chính nó và như chúng ta được biết “vàng thật không sợ lửa”, chính vì vậy cần có những người quản lý về chuyên môn để quản lý tốt các công trình STT trên trang trí di tích.
Hệ quả của việc dát bạc lá trên các hoạ tiết trang trí ảnh hưởng không tốt đối với di tích. Công đoạn thếp bạc lá trên các công trình kiến trúc lịch sử di tích nói chung và di tích thời Nguyễn nói riêng, có hệ quả xấu vì sau một thời gian lớp phủ hoàng kim trên họa tiết nhanh chóng mờ nhạt và không còn nguyên màu vàng đọng lại trên đó, sẽ lộ ra những mảng bạc lá lốm đốm cùng với sự bong tróc của sơn phủ hoàng kim trông rất khó coi.
3.5. Thực trạng của việc sử dụng xi măng sắt thép thay thế hoàn toàn cho chất liệu gỗ truyền thống đối với những cột trụ, kèo, cấu kiện và hạn chế cho việc tạo hình trang trí của STT.
Trên thực tế, trong Hoàng Thành Đại Nội hiện tượng sử dụng chất liệu xi măng sắt thép cho các trụ cột và kèo thì chưa xảy ra, nhưng có một công trình bên ngoài như ở Phu Văn Lâu đối diện kỳ đài Ngọ Môn gần sông Hương là có thật. Năm 2014 toà nhà này bị sụp đổ một góc bên tay trái tính từ kỳ đài nhìn ra sông Hương, công trình này được làm bằng xi măng hoàn toàn từ các hàng cột cho đến vì kèo và mái đỡ ngói, sau đó tô phủ STT. Qua quan sát chúng tôi nhận thấy đây không hoàn toàn là sơn ta mà có một phần pha trộn. Năm 2015, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho trùng tu bảo tồn toàn bộ Phu Văn Lâu và hoàn thành năm 2016 bằng chất liệu gỗ và STT, tạo vẻ đẹp vốn có của cung đình và cảnh quan thiên nhiên nơi ấy hòa nhập với các chất liệu sơn trong Hoàng Thành cùng thời.
4. Hướng bảo tồn STT trên nghệ thuật trang trí thời Nguyễn
Các vị vua Nguyễn lên ngôi phục dựng và bảo tồn suốt thời gian trị vì đất nước (1802-1945). Ngày nay, sự hiện hữu của chất liệu STT trong trang trí di tích thấm thoát gần hai thế kỷ; vậy mà có một thời bỏ ngõ vào sự quên lãng theo thời gian và do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan của con người trong chiến tranh và thiên tai tàn phá để lại, trong đó có những đền đài lăng mộ đổ nát, cảnh quan cây cối mọc um tùm và hoang vu, cùng với sự chen lấn di tích của người dân địa phương trong thành nội làm ảnh hưởng xấu đến mỹ quan.
Trong Nội các triều Nguyễn, tập sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (KĐĐNHĐSL) tập XV, có đoạn viết về Lệ Thếp Phủ Vàng Bạc như sau “…có cần thếp phủ vàng bạc, thiếc, do Thái giám, thị vệ chuyển truyền hay các nhà tư giao làm, thì sức thuộc ty và thợ trù tính…..Thiệu Trị năm thứ 4 (1844) chuẩn y lời tâu rằng: Từ nay chế tạo vật hạng gì cần thếp hoặc phủ vàng….Chi hết bao nhiêu lá vàng, bạc, thiếc đều phải đăng ký, khi xong việc thì theo lệ làm sổ làm đơn” [9, tr.95].
PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng trong nghiên cứu Hành trình mười năm của Di sản văn hóa Huế -Di sản văn hóa Thế giới cho biết “…Cần phải có sự ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể, không nên máy móc nhưng cũng không được xa rời nguyên tắc bảo tồn tính chân xác của di sản” [8, tr.33]. Trong quá trình bảo tồn muốn bảo đảm tính chân xác của công trình, đòi hỏi Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế nỗ lực hết mình cả về nội lực và ngoại lực cho công trình STT, đánh giá và thẩm định được có bao nhiêu lớp sơn là chân xác bên trong của từng công đoạn của lớp hom sơn, hom bó, mài hom mài bó, sơn lót và cuối cùng đến lớp sơn thí màu, những giá trị thẩm mỹ về chất liệu sơn trong kiến trúc, đối với các công đoạn nói lên việc coi trọng công sức lao động của nghệ nhân và tôn vinh những giá trị thẩm mỹ ấy, cho nên trong bài nghiên cứu của TS. Trần Minh Đức về công trình Kỹ thuật và công nghệ bảo tồn tu bổ di tích có trình bày “Những giá trị mỹ thuật gắn liền với di tích được coi là tinh hoa của dân tộc và phải bảo tồn bằng mọi giá” [5, tr.148].
– Bảo tồn bằng phương pháp truyền thống
Việt Nam, có Quần thể Di tích cố đô Huế đã được UNESCO công nhận di sản văn hoá vật thể từ năm 1993. Điều đó chứng minh việc trùng tu bảo tồn chất liệu STT bảo đảm tính chân xác của nó là một vấn đề các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cần quan tâm trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật đặc biệt này.
Ngày nay, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 của Đảng khoá VIII – bàn về Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hợp các giá trị tinh thần của dân tộc, Nghị quyết đã nêu rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng của các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [4, tr.56].
Về việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong nội dung của Nghị quyết nhấn mạnh và khái quát rất cao, đề cập đến các bình diện văn hoá, khai thác triệt để trí tuệ của toàn Đảng toàn dân, chú trọng đội ngũ trí thức, những nhà khoa học/nghiên cứu nhằm thực hiện hướng chỉ đạo của Đảng, cụ thể Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế là đầu ngành về bảo tồn các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể coi đây là tài sản vô giá thời Nguyễn để lại, nhiệm vụ của con cháu chúng ta có trách nhiệm trùng tu bảo tồn mà Đảng ta chú trọng việc “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá: Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá” [4, tr.63].
PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng trong nghiên cứu Hành trình mười năm của Di sản văn hóa Huế, Di sản văn hóa thế giới đã khẳng định “…Di sản Văn hóa Huế là tổng hợp các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đối với mỗi loại hình có tính chất phức tạp và đặc thù riêng, do đó cần có ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể, không nên máy móc, nhưng cũng không được xa rời nguyên tắc bảo tồn tính chân xác của di sản” [8, tr.33] và trong nghiên cứu Một số vấn đề khoa học trong nghiên cứu khảo cổ học góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích thời Nguyễn, tác giả đã trình bày “Chúng ta tiếp thu những thành tựu khoa học của các đồng nghiệp trên thế giới trong lĩnh vực này, mặt khác chúng ta tiếp thu nghiên cứu tìm lại những kinh nghiệm hoạt động bảo tồn di tích truyền thống của cha ông để bảo tồn và phát huy giá trị được tốt” [7, tr.96].
– Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại
Bảo tồn di tích kiến trúc gỗ là đáp ứng các nguyên tắc của khoa học bảo tồn kết hợp với văn hoá tâm linh dân tộc. Đa số các kiến trúc được làm bằng chất liệu gỗ, gỗ là một vật liệu của thiên nhiên, có tính truyền thống, tính tâm linh từ thời xa xưa cho đến ngày nay.
Chủng loại của gỗ có rất nhiều loại, trong di tích đa phần sử dụng loại gỗ thiết mộc gồm loại tứ thiết và các loại gỗ có tính chất tương đương như gỗ lim, gỗ đinh, gỗ sến, kiền kiền, gỗ táu … nó có tác dụng chịu lực tốt cho các bộ khung sườn; loại gỗ Hồng sắc như gỗ chò chỉ, gỗ dầu, gỗ gõ, gỗ huện, gỗ tech, gỗ dổi, gỗ dầu…sử dụng trong di tích làm kết cấu bao che, đồ nội thất cũng như kết cấu chịu lực. Nhưng theo tiêu chuẩn về gỗ Việt Nam và theo sự phân loại của Lâm nghiệp cho biết gỗ có giá trị mỹ nghệ như gỗ trắc, mun, giáng hương, sừng, gụ mật, lát chun, lát hoa…và gỗ thuộc loại thiết mộc như gỗ lim xanh, kiền kiền, đinh khét, táu mật và dâu đen đã được Tổng cục Lâm nghiệp đưa vào loại gỗ quý dùng tốt cho các công trình di tích lịch sử. (Căn cứ Quyết định 42/QĐ ngày 09/8/1960 của Tổng cục Lâm nghiệp về phân loại gỗ sử dụng).
Trong di tích lịch sử văn hoá Huế việc tổng thể kiến trúc gỗ truyền thống và điêu khắc gỗ đã trở thành linh hồn sống của người Việt, các nghệ nhân gửi gắm linh hồn nghệ thuật của mình vào những tinh hoa trong các hoạ tiết và làm giàu bản sắc văn hoá và giá trị nghệ thuật kiến trúc điêu khắc gỗ của người Việt. Chính vì vậy việc bảo tồn tính chân xác những giá trị cơ bản của kiến trúc gỗ và các hoạ tiết hoa lá và thú vật hoá để trở thành tính trang trí đặc sắc với những đường nét điêu luyện là một yêu cầu tối ưu trong công tác phục chế bảo tồn bằng nguyên liệu gốc hoặc thay thế cùng chủng loại.
Kết hợp giữa truyền thống với hiện đại ngày nay, chúng ta có thể vận dụng linh hoạt những công nghệ phục vụ cho việc trùng tu bảo tồn vững bền chất liệu STT trong trang trí theo hướng hiện đại như sau.
Thứ nhất, bảo tồn nền cốt bên trong của các loại gỗ quý hiếm bằng cách cho xây dựng và đúc hệ thống rường cột bằng xi măng cột thép, với những ý tưởng có tính bền vững, mới nghe khó chấp nhận và thuyết phục được; nhưng trên thực tế do nhiều yếu tố khách quan như bão tố, mưa nắng thất thường, nạn lũ lụt đe doạ thường xuyên, cho nên có thể chấp nhận trong giai đoạn thể nghiệm một công trình, sau đó Hội đồng nhà nước đánh giá và cho nhân rộng toàn bộ Quần thể di tích cố đô Huế.
Thứ hai, bảo tồn nền gỗ, nền STT, trên nền vàng lá và hoà với sơn cánh gián (sơn chín) đi nét các hoạ tiết trang trí bằng chất keo (glue) hoá học hai thành phần của Việt Nam sản xuất. Theo kinh nghiệm của tác giả trong quá trình tìm hiểu và thử nghiệm chất keo này, nó có chức năng kết dính vững chắc giữa các thành phần lại với nhau như giữa màu son với keo, bột chu hay mạt cưa để trát lên các vết tỳ của gỗ, hàn gắn các mảng gỗ lại với nhau… Chúng còn có chức năng hỗ trợ và che chở bởi sự tác động môi trường từ bên ngoài như ẩm ướt, loài mối xâm thực hoặc sự xoa vuốt, tựa người của khách tham quan… Ngoài ra chúng còn có khả năng hoà trộn với sơn chín trong khâu vẽ nét hoạ tiết để dát vàng lá, chúng có ưu điểm trong khoảng thời gian ngắn khô ráo rất nhanh, giảm bớt thời gian để tăng năng suất cho công trình. Đồng thời cũng sử dụng loại keo này quét một lớp mỏng trên nền có các hoạ tiết sẽ bảo quản khỏi bị trầy xước…
Thứ ba, sử dụng chất làm nền có tên gọi là (lacquer base), có hai công dụng trong quá trình thực hiện, có thể áp dụng công nghệ hiện đại hoá vào công trình STT như sử dụng chất nền này để tô trát, bít kín các lỗ thủng, vết tỳ của gỗ để thay cho bó sơn và hom sơn…
5. Kiến nghị và giải pháp bảo tồn STT trên nghệ thuật trang trí thời Nguyễn
5.1. Giải pháp
– Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cần có chiến lược, hoạch định bảo vệ tốt các công trình có hoạ tiết trang trí STT.
– Các nhà nghiên cứu quan tâm hơn về những bài viết có liên quan đến chất liệu STT trong trang trí di tích thời Nguyễn.
– Nhà nước đầu tư tài chính và quản lý chặt chẽ về tài chính, vật liệu để tránh những thất thoát dẫn đến hạn chế không đạt chất lượng về mặt kỹ thuật, đồng thời giám sát chặt chẽ các công đoạn thi công của người thợ để tránh những việc làm không đúng kỹ thuật.
– Nâng cao chất lượng về đội ngũ phục vụ bảo tồn có kết quả tốt.
– Sử dụng STT (sơn ta) loại tốt trong các kiến trúc di tích thời Nguyễn.
– Hạn chế việc sử dụng dát bạc lá trên họa tiết trang trí, vì sau khi dát bạc lá xong phải phủ lớp sơn hoàng kim, thời gian sẽ làm cho sơn hoàng kim phai nhạt dần dần, nó lộ ra những mảng lốm đốm giữa bạc lá trắng trơn với bạc lá được nhuộm vàng.
– Nên thay bạc lá bằng vàng lá trên tất cả họa tiết trang trí của STT, ưu điểm sắc vàng lộng lẫy, bền vững và có ý nghĩa thẩm mỹ của các kiểu thức trang trí trong di tích.
– Tổ chức nhiều Hội thảo về kỹ thuật STT trên kiểu thức trang trí di tích thời Nguyễn và tập huấn về kỹ thuật STT, kỹ thuật khắc chạm cho người quản lý và người thợ sơn, thợ vẽ…
Hạn chế:
– Không còn công trình STT gốc để đối chiếu so sánh.
– Do tác động trực tiếp ánh nắng quá gay gắt.
– Do mưa gió ẩm ướt làm cho STT không còn độ kết dính bền vững.
– Các vi khuẩn gây hại cho công trình.
– Chất lượng và quá trình thi công không đúng với kỹ thuật hoặc người thợ thu hoạch nhựa sơn (mủ sơn) không bảo đảm về tuổi thọ của cây sơn, (trong thời gian sinh trưởng của cây sơn từ năm thứ 2 đến thứ 3 nhựa sơn không bảo đảm chất lượng, mà phải từ năm thứ 5 trở lên mới cho mủ sơn tốt.)
– Có khả năng sử dụng lượng dầu hỏa nhiều so với STT (sơn ta)
– Do tác động của khách tham quan di tích
– Do không có hệ thống bảo quản
– Hạn chế của Cán bộ quản lý di tích, họ chỉ tập trung nhắc nhỡ không được chớp ảnh? Còn khách du lịch thường xuyên chạm tay hoặc đứng tựa người vào STT nhưng không được nhắc nhỡ, nên công trình bị bào mòm nhiều ở các hàng cột trụ cụ thể ở điện Thái Hòa và Thế Miếu…
5.2. Kiến nghị
– Tính cấp thiết của việc đào tạo ngành nghề STT trong trang trí nhằm phục vụ các công trình kiến trúc tại Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
– Thiếu những công trình nghiên cứu về chất liệu STT, các hoạ tiết trang trí được chạm khắc trên nền gỗ có sơn son hoặc các hoạ tiết trang trí bằng đường nét có dán vàng lá…
– Xây dựng đề án mở ngành đào tạo về Trùng tu Bảo tồn nghệ thuật trang trí kiến trúc và chất liệu STT.
– Sự phối hợp giữa các trường Đại học trong cả nước đã có bề dày đào tạo. Đồng thời xây dựng chương trình đào tạo Phục chế bảo tồn di tích và đặt lớp đào tạo tại trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế.
Để được Bộ GD&ĐT, Đại học Huế chấp thuận phê duyệt đề án mở ngành/chuyên ngành đào tạo Phục chế bảo tồn các giá trị di sản vật thể trong di tích nói chung và nói riêng chất liệu STT có họa tiết trang trí trong thời Nguyễn hoặc các nghệ thuật khác như bảo tồn nghệ thuật đúc đồng, nghệ thuật pháp lang hoặc di sản Chămpa…
6. Kết luận
Sơn truyền thống trên trang trí di tích của thời Nguyễn kế thừa, phát huy những truyền thống quý báu của nghệ thuật các thời kỳ trước đó và chúng phát triển rực rỡ cho đến ngày nay. Chất liệu STT đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong di tích, chúng làm tăng vẻ đẹp huyền bí, trang nghiêm và ấm cúng trong mỹ thuật cung đình Nguyễn một thời.
Sự khó khăn lớn trong chất liệu STT là không ghi chép lại các công trình gốc đã được thay thế qua mỗi thời kỳ dưới triều Nguyễn. Ngày nay các công trình đã qua nhiều lần phục chế theo lối truyền khẩu nên không tránh khỏi sự sai sót trong công tác bảo tồn. Vì vậy, muốn bảo tồn có tính chuẩn xác, không có cơ sở để chứng minh; tuy nhiên trên thực tế, một số công trình hiện hữu STT đã và đang bảo tồn cho thấy người thợ nghệ nhân đã tiếp cận nghệ thuật xưa và bảo tồn có tính chân xác như ngày hôm nay.
Chất liệu STT luôn phát triển trong sự giao lưu với nghệ thuật hiện đại, từ đó những người làm công tác nghệ thuật dễ dàng tiếp nhận những thông tin mới cả chiều sâu về thời gian lẫn chiều rộng về không gian trong việc bảo tồn chất liệu STT và bảo tồn hoạ tiết trang trí, mong muốn tìm đến tiếng nói chung nhất trong bảo tồn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM |